Nghiên cứu về trà hoa vàng ở Việt Nam và trên thế giới

Trà hoa vàng Camellia sinensis được nghiên cứu và sản xuất bởi các nhà khoa học cũng như các nhà sản xuất, kinh doanh dược liệu; Trong bài viết này, chúng tôi đã hệ thống hóa một số nghiên cứu về trà hoa vàng được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam thực hiện những năm gần đây.

1. Nghiên cứu về trà hoa vàng trên thế giới

Hoa trà vàng là một chi thực vật có nhiều loài phong phú và nhiều công dụng. Theo thống kê, trên thế giới có hơn 300 loài và hàng chục  chủng khác nhau (Trịnh Kim Thủy và cộng sự, 1994 – Nghiên cứu chọn giống lai giống loài trà hoa vàng. Tạp chí đại học Lâm Nghiệp Bắc Kinh)).
Vào những năm 60 của thế kỷ 20, trà hoa vàng lần đầu tiên được phát hiện ở Quảng Tây, Trung Quốc và thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Kể từ đó, nó đã trở thành chủ đề của nhiều nghiên cứu ở các nước vì nó có một số công dụng cụ thể.
Hoa trà vàng ưa khí hậu ấm áp, ẩm ướt, thường mọc ở  đất tơi xốp, ven suối râm mát, thoát nước tốt. Vùng phân bố tự nhiên rất hẹp và chỉ  mọc hoang ở vùng đồi núi cao 100 – 200m, huyện Ứng Nhinh – Nam Ninh – Quảng Tây – Trung Quốc. Nằm trong danh sách các loài thực vật được bảo vệ cấp I của Trung Quốc.
Nghiên cứu về trà hoa vàng
Vào những năm 60 của thế kỷ 20, trà hoa vàng lần đầu tiên được phát hiện ở Quảng Tây, Trung Quốc
Lá trà hoa vàng chứa nhiều nguyên tố vi lượng như Germanium (Ge), Selenium (Se), Mangan (Mn), Molypden (Mo), Kẽm (Zn), Vanadi… Các hoạt chất trong lá và hoa trà hoa vàng có tác dụng hạ huyết áp, giảm tiểu đường, giảm cholesterol, giảm mỡ máu, chống khối u, tăng cường hệ miễn dịch và kéo dài tuổi thọ. Germanium có hoạt tính sinh lý rất cao, có thể thúc đẩy và nâng cao khả năng hấp thụ O2 của tế bào, đảm bảo cung cấp oxy cho cơ thể, có lợi cho quá trình trao đổi chất. Germanium hữu cơ tăng sức đề kháng, chống lại khối u, hạn chế sự phát triển của tế bào khối u, tăng khả năng miễn dịch và có tác dụng chống ung thư. Selenium có tác dụng chống oxy hóa, có thể loại bỏ các gốc tự do có hại trong cơ thể, nâng cao khả năng tự bảo vệ, từ đó kéo dài tuổi thọ. Vanadi có thể thúc đẩy chức năng tạo máu và giảm cholesterol trong huyết tương. Nghiên cứu lâm sàng cho thấy trà hoa vàng giúp giảm mỡ máu rõ rệt hơn alpha-napthothiourea, một loại thuốc  được thế giới công nhận về tác dụng giảm mỡ máu (Lương Thịnh Nghiệp, 2000. Trà hoa nổi tiếng của Trung Quốc. Nhà xuất bản Kim Thuận – Bắc Kinh).

2. Nghiên cứu về trà hoa vàng ở Việt Nam

Ở Việt Nam, hoa trà được tìm thấy ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc nước ta như Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào Cai… chúng thường mọc ở độ cao từ 300 đến 800 m so với mực nước biển, chủ yếu là  rừng thứ sinh, xen kẽ các cánh đồng, trên một số địa hình quá dốc hoặc có nhiều đá lộ thiên, ven suối cạn (Sơn Tùng, 2008. Camellia – Siêu trà bị lãng quên).
Nghiên cứu về trà hoa vàng
Trà hoa vàng là loại cây gỗ nhỏ thường xanh, cao khoảng 2 đến 5 m
Dù hoa trà đã được phát hiện gần một thế kỷ nhưng cho đến nay công tác bảo tồn vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm và nghiên cứu ứng dụng gần như bị bỏ ngỏ. Không chỉ có hai loài hoa trà được ghi vào Sách đỏ Việt Nam mà hàng chục loài hoa trà khác đang có nguy cơ tuyệt chủng. Trước mắt chủ yếu là bảo tồn tại chỗ, đồng thời nghiên cứu di thực để trồng thử nghiệm tại Đà Lạt và VQG Tam Đảo. Trong thời gian tới, để bảo tồn và quản lý bền vững nguồn gen quý giá này cần tập trung nhân giống cho các đồn điền quy mô lớn.
Hoa trà vàng là loại cây gỗ nhỏ thường xanh, cao khoảng 2 đến 5 m, cành thưa thớt, vỏ màu vàng xám nhạt. Lá đơn mọc từ một vòng tròn dài và hẹp. Hàng năm vào tháng 4-5, chồi phát triển và xuất hiện lá mới, sau 2-3 năm lá già rụng đi. Vào tháng 11, cây bắt đầu ra hoa và nở hoa kéo dài đến tháng 3 năm sau. Hoa mọc ở nách lá mới phát triển. Màu vàng vàng sáng, đẹp và lấp lánh, tạo cho người ta cảm giác nửa trong suốt. Hoa được bày trong cốc hoặc bát, kiểu dáng hoa đa dạng, đẹp mắt (Ngô Quang Đệ, 2001. Camellia sp) là nguồn tài nguyên quý hiếm cần được bảo vệ và phát triển. Tạp chí Nước Hoa Việt Nam  số 92 tháng 5 – 2001. P10 – 11).
Trà hoa vàng có giá trị kinh tế và dược liệu rất cao. Lá có thể trộn để uống, dùng làm thuốc chữa kiết lỵ, rửa vết thương, vết loét. Những bông hoa điều trị tiêu chảy ra máu và cũng có thể được sử dụng làm màu thực phẩm. Gỗ cứng có thể được sử dụng để làm đồ dùng gia đình và đồ thủ công. Hạt có thể được ép để chiết xuất dầu.
Nghiên cứu về trà hoa vàng
Lá có thể trộn để uống, dùng làm thuốc chữa kiết lỵ, rửa vết thương, vết loét
Hoa trà vàng có thời gian ra hoa dài, hoa màu vàng sặc sỡ, hoa từ trung bình đến lớn, đường kính 4-8cm. Do hoa đẹp, nhiều loài nở vào dịp Tết Nguyên Đán nên những người đam mê cây cảnh đã sưu tầm hoa trà dại về trồng làm cảnh trong vườn. Hiện nay chỉ quan tâm đến giá trị cảnh quan, còn giá trị sinh học, dược liệu chưa được xem xét, khai thác (Trần Ninh, 2002. Kết quả nghiên cứu về phân loại trà hoa vàng của Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo toàn quốc lần thứ nhất về Hoa trà vàng từ Việt Nam Tam Đảo ngày 8 – 10 tháng 1. 2002.P9-14).
Hoa trà vàng là loại cây nhỏ, chịu bóng, thường mọc dưới tán các cây khác trong rừng tự nhiên. Vì vậy, trà hoa vàng có khả năng trồng làm cây dưới tán cho các vành đai rừng phòng hộ nhằm nuôi dưỡng nguồn nước, chống xói mòn. Cây có nhiều lá, dễ phân hủy, có tác dụng giữ nước, cải tạo đất tốt.
Trên báo Lâm Đồng  ngày 6/8/2008, tác giả Sơn Tùng (2008) với tựa đề “Camellia – Siêu trà bị lãng quên” đã nêu công dụng, giá trị chữa bệnh của trà hoa vàng và lợi ích của nó. Ông cũng nhấn mạnh việc khai thác hợp lý nguồn tài nguyên này ở Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ.

Một trong những vườn trà góp phần trong việc bảo tồn và phát triển giống lớn nhất ở Việt Nam chính là vườn trà hoa vàng của Quy Hoa Trà do ông Lê Mạnh Quy tự tay trồng từ những cây non đầu tiên tại thôn 5, xã Quảng Chính, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh. Vườn trà còn góp phần tạo ra công ăn, việc làm cho rất nhiều người dân trên địa bàn.

Vườn trà hoa vàng của Quy Hoa Trà do ông Lê Mạnh Quy tự tay trồng tại Hải Hà, Quảng Ninh
Các công trình nghiên cứu được các nhà khoa học trong và ngoài nước công bố về Camellia sinensis là nguồn thông tin quan trọng trong nghiên cứu về trà hoa vàng chuyên sâu, từ đó đưa ra giải pháp bảo tồn và phát triển các loài hoa trà trong tương lai.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *